Evie Wyld, After the Fire, a Still Small Voice [trích]

This is the first two pages of Evie Wyld‘s After the Fire, a Still Small Voice. The novel won a certain number of prizes and Evie Wyld made the Granta BOYB List 2013, which brought her to Vietnam during the European Literature Days in May.

Con đường đất hẹp dưới nắng nướng bốc thành bụi. Bụi cuộn lên từ dưới bánh xe như đợt triều màu cam, phà vào cửa sổ rồi đậu lại trong lớp lông tay Frank Collard. Theo anh nhớ nơi này ngày xưa có vẻ nhiệt đới hơn, đất cũng chắc và ẩm hơn. Những thân mía hai bên đường còm cõi, ẻo lả như sậy, lớp vỏ nâu cùng chỏm lá xanh quặt quẹo trông có vẻ hoang dại. Mía vẫn nguyên từ hai chục năm nay chưa chặt, đu đưa như mặt biển xanh. Giữa biển mía bật lên nhiều thân bạch đàn, mặc kệ dịch chết ngọn. Từng có thời khắp vùng toàn cây thân gỗ. Cái thời ông bà anh ra đây sống, riêng hai người với nhau, hồi xa lộ còn chưa làm, có lẽ thời ấy túp lều đã nằm lọt thỏm giữa rừng.

Bãi đất trống cũng bé hơn anh nhớ, cứ như đồng mía đã lén nhích sát thêm quây lấy căn lều vuông bằng gỗ sáng màu. Cây chuối xòa thấp xuống mái tôn sóng. Anh tắt máy, sụm người vào ghế một lúc cho thấm vào mình. Nghe nhói một cái sau gáy anh đập tay, tay xòe ra thấy vết máu.

“Về tới nhà là và tới nhề.”

Anh có thể chạy xe về đây chẳng cần nghĩ đường. Có thể bật đài thật to nghe chương trình tưởng niệm ở vườn thú quốc gia. Vụ này là giết để trả thù, họ gọi thế, những xác cá đuối gai bị cắt xẻo xuất hiện khắp các bãi biển Queensland ấy. Anh có thể mặc đôi tay bẻ lái đưa mình về Mulaburry, theo những đường ngày xưa vẫn bắt xe đi nhờ, hồi còn là thằng bé mặt tàn nhang bỏng nắng, khẳng kheo như chó hoang chứ không phải gã đàn ông bắp vế mập bàn tay to như giờ. Nhưng dù biết thế, anh lại vẫn tấp vào đường phụ, vuốt thẳng bản đồ, đọc lớn tên các địa danh, vẫn đưa mắt dò đi dò lại các mốc đường chính, tìm những đoạn rẽ anh biết thừa chẳng có ghi trên đó. Đôi cánh tay căng như dây đàn khiến anh chỉ muốn giáng nắm đấm vỡ cửa kính trước, nhưng trái lại, khi có cỗ rơ mooc ầm ầm chạy qua làm chiếc Ute chao đảo, anh lại bóp chặt bánh lái, làm bản đồ rúm lại, cảm thấy nó rách những vết nhỏ khi móng tay cắn vào. Anh đã túm chặt vô lăng đến bỏng tay, ấn thật mạnh cứ như làm thế có thể khiến hai tay nguôi bớt. Nhưng cũng chẳng khá hơn, trong chốc lát anh đã ở ngoài xe, hai nắm đấm nện thình thình xuống mui hết sức bình sinh, mũi giật giật, họng tắc lại, muốn điên vì cảm giác có của khốn nạn kinh khủng nào đấy đang bơi bơi trong mình. Rồi đến khi hết cơn xuội xuống, anh đã trèo trở vào xe rồi gấp lại tờ bản đồ bị giày vò, và khi thấy nó không liền lại nổi anh khẽ cười rồi nổ máy.

Bên ngoài không khí nghèn nghẹn tiếng côn trùng, ngột ngạt vì cái nóng, những cây bạch dương già rên khọt khẹt. Trên cửa ổ khóa đã mất, nghĩ đến chuyện thằng chết dẫm nào đó đã giành mất chỗ này mà anh chỉ muốn lộn trở lại đảo một mạch về Canberra. Thốt nhiên anh thấy vụ này xuẩn hết sức. Lúc ở nhà bới tung các ngăn kéo tìm xem có lời mách bảo nào nên làm gì bây giờ, anh đã thấy cái phong bì cất tấm ảnh mẹ, chụp mùa hè nào đó đang đi nghỉ ở căn lều này. Trong ảnh mẹ đang giăng tấm trải giường lên giữa nắng, cũng hàm răng to bản như anh, cái mũi tẹt như anh. Nhưng tóc thì khác – mái tóc mẹ như một con thú lông vàng đùa chơi trong gió. Anh giống bố mặt đó, đen và xơ xác, không thuộc nơi này. Bên vai mẹ khung cửa sổ, trong còn thấy lờ mờ hũ mứt cắm một bông hoa. Thật cứ như bị Chúa phát một cái vào đít. Chắc chưa quá một tháng sau cái buổi mẹ giăng tấm trải giường lên ấy, là ngày cả nhà đang đi trong chiếc Holden nâu đời cũ của bố, và thằng xe tải không dừng lại trước ngã tư. Khi anh tỉnh dậy, chẳng còn mẹ mà cũng chẳng còn xe Holden nâu đời cũ.

Tags :